Nông nghiệp Vĩnh Long

 sgdnsvl.snn@gmail.com  02703 880 191
 
Tình hình sâu bệnh hại trên lúa tháng 3/2025 và dự báo tháng 4/2025
Thứ hai, Ngày 24 Tháng 3 Năm 2025
1523 Lượt xem
Tính đến cuối tháng 3/2025, lúa vụ Đông Xuân thu hoạch cơ bản dứt điểm, ước năng suất bình quân đạt 6,68tấn/ha. Đồng thời, trà lúa Hè Thu vừa mới xuống giống khoảng 8.000ha lúa đang giai đoạn mạ đến đòng trổ, lúa đang giai đoạn mạ đến làm đòng, các trà lúa đang sinh trưởng và phát triển khá tốt. Theo dự nhận định của Trung tâm dự báo Khí tượng thủy văn Quốc gia xâm nhập mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), dự báo sẽ tiếp tục tăng cao trong tháng 02 đến tháng 4 năm 2025, ở mức cao hơn trung bình nhiều năm, xấp xỉ và thấp hơn năm 2024, thấp hơn các năm 2016 và 2020. Thời kỳ cao điểm xâm nhập mặn sâu vào các cửa sông có thể ảnh hưởng đến sản xuất cây trồng. Do đó, bà con nông dân cần thăm đồng thường xuyên để theo dõi chặt chẽ tình hình nước mặn sẽ đi sâu vào nội đồng ảnh hưởng sự phát triển và sinh trưởng của các trà lúa và các đối tượng gây hại nghiêm trọng.

Ảnh: Chuẩn bị đất xuống giống lúa vụ Hè Thu 2025

Về sâu hại: các trà lúa Hè Thu sâu hại phát triển theo hướng tăng dần về mức độ gây hại và diện tích nhiễm. Cùng với sự biến động của thời tiết khô nóng, cường độ nắng trong ngày khá gay gắt, đạt ngưỡng nắng nóng ở trên mức 35-38oC, tạo cơ hội cho các loài dịch hại sinh trưởng và phát triển mạnh như: Cỏ dại, rầy nâu, sâu cuốn lá nhỏ, bù lạch (bọ trĩ), nhện gié,… Phổ biến nhất các đối tượng gây hại như sau:

1. Đối với Bọ trĩ (bù lạch): tình hình diễn biến thời tiết khí hậu năm nay nắng nóng khô hạn phức tạp nên rất thuận lợi cho sâu bệnh hại lúa giai đoạn mạ nhất là bọ trĩ sẽ gây hại nặng trên các trà lúa phát triển mạnh. Bọ trĩ gây hại làm lá bị cuốn lại ở chóp, lá héo, tóp lại và khô vàng đi. Đặc biệt nặng ở các ruộng khô nước.

Biện pháp quản lý:  đối với bọ trĩ gây hại trên lúa Hè Thu giai đoạn mạ bà con nông dân không nên can thiệp thuốc bảo vệ thực vật khi mật số thấp, chỉ cần đưa nước vào ruộng kết hợp bón phân để tăng cường sức đề kháng, giúp cây lúa vượt qua và phục hồi nhanh hơn.

2. Đối với sâu cuốn lá nhỏ (SCLN): diện tích nhiễm là 152 ha (trên lúa Hè Thu sớm), với mật số dao động từ 10-20 con/m2, gây hại chủ yếu giai đoạn đẻ nhánh tại huyện Vũng Liêm, Trà Ôn. Dự báo đầu tháng 3/2023, sâu sẽ tăng mật số và diện tích nhiễm, gây hại phổ biến ở mức nhẹ - trung bình trên các trà lúa đẻ nhánh đến làm đòng. Nhất là trên những ruộng sạ dày, bón thừa phân đạm, phun thuốc trừ sâu sớm đầu vụ,…

Biện pháp quản lý: thăm đồng thường xuyên phát hiện SCLN để kịp thời xử lý; Bón phân cân đối N, P, K. Tránh bón thừa đạm, có thể bón lót hoặc bón bổ sung các loại phân trung lượng có chứa Canxi, Silic cao,... sẽ giúp cây lúa tăng tính chống chịu khắc nghiệt; Khi sử dụng thuốc BVTV phun trừ sâu cần tuân thủ nguyên tắc "4 đúng". Đối với trà lúa mới đẻ nhánh (dưới 40 ngày tuổi), cần khuyến cáo nông dân hạn chế tối đa phun thuốc trừ sâu trong giai đoạn này để trừ các loại sâu ăn lá bằng các loại thuốc trừ sâu phổ rộng (gốc lân hữu cơ và cúc tổng hợp) nhằm tránh sự bộc phát sâu hại ở giai đoạn sau. 

3. Đối với rầy Nâu: diện tích nhiễm cao nhất trong kỳ là 12 ha, với mật số dao động từ 500-1000con/m2. Hiện tại trên đồng, phổ biến rầy tuổi 4,5 và rải rác có rầy trưởng thành đang di trú sang lúa Hè Thu, gây hại trên lúa giai đoạn đẻ nhánh tại các huyện trong tỉnh. Dự báo sẽ có một đợt rầy di trú từ ngày 05/4 đến ngày 10/4/2025 do lúa Đông Xuân các tỉnh đang thu hoạch rộ. Tất cả diện tích lúa Hè Thu đã xuống giống đều có khả năng nhiễm.

- Biện pháp quản lý: cần thường xuyên thăm đồng, kiểm tra tình hình rầy nâu tại chỗ, đặc biệt lượng rầy di trú cũng như tỷ lệ mang mầm bệnh để xuống giống Hè Thu thích hợp. Khi phát hiện rầy nâu trên trà lúa dưới 20 ngày tuổi cần tiến hành đưa nước vào ruộng nhằm hạn chế rầy đẻ trứng và truyền bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá. Đối với trà lúa lớn thì kiểm tra mật số để xử lý kịp thời. Không pha trộn với thuốc trừ sâu khi phun trừ rầy.

Về bệnh hại: thời tiết tháng 3 và tháng 4/2025 đang vào cao điểm mùa khô như: nắng nóng, khô hanh,…tạo điều kiện thuận lợi cho các loại bệnh hại có khả năng xuất hiện gây hại như đạo ôn lá (cháy lá), vàng lá, đốm nâu,…phổ biến là bệnh đạo ôn lá (cháy lá), bệnh có khả năng xuất hiện sớm vào đầu vụ và kéo dài đến cuối vụ.

4. Đối với bệnh đạo ôn: diện tích nhiễm trong kỳ là 170 ha, tỷ lệ từ 5-10%. Bệnh xuất hiện giai đoạn đẻ nhánh đến trổ tại huyện Tam Bình, Trà Ôn và Vũng Liêm. Dự báo trong những ngày tới, bệnh sẽ tiếp tục gia tăng diện tích nhiễm và tỷ lệ bệnh nhất là giai đoạn đẻ nhánh đến đòng trổ.

Biện pháp quản lý: bà con nông dân thăm đồng thường xuyên phát hiện bệnh sớm; sử dụng phân bón NPK cân đối, tránh bón thừa đạm. Đối với các thửa ruộng bón quá thừa đạm làm cây lúa bị trải lá, mềm yếu,… cần bổ sung Kali ngay (có thể phun hay rải) và giữ nước trong thời gian cây lúa bị nhiễm bệnh; Ngưng bón các loại phân chứa đạm cao (nhất là phân Urea), tăng cường thêm phân Kali,…; Tránh để ruộng bị khô hạn khi cây lúa đang bị bệnh đạo ôn gây hại. Đối với bệnh đạo ôn cổ bông (thối cổ gié) cần phun ngừa bệnh 02 thời điểm: lúc lúa trổ lẹt xẹt (khoảng 5%) và phun lại lúc lúa trổ đều.

5. Ngộ độc hữu cơ: nguy cơ ruộng lúa bị ngộ độc hữu cơ từ việc tranh thủ mùa vụ do gieo sạ cập rập có thể dẫn đến tỷ lệ nhiễm bệnh gia tăng. Đối với những diện tích chuẩn bị xuống giống, sau khi đã thu hoạch lúa Đông xuân cần vệ sinh đồng ruộng thật kỹ lúa rài, lúa chét và cỏ dại xung quanh bờ ruộng, xới trục kỹ và phải đảm bảo thời gian cách ly ít nhất 14 ngày. Đặc biệt những vùng xuống giống lúa Hè Thu không đảm bảo thời gian cách ly cần phải phun nấm Trichoderma, bón lót phân lân ngay khi làm đất lần cuối nhằm hạn chế ngộ độc hữu cơ. Xử lý vôi, bơm và tháo nước rửa đất cho những diện tích có nguy cơ ngộ độc hữu cơ cao.

- Một số lưu ý trong sản xuất lúa vụ Hè Thu trong việc quản lý nước trong ruộng lúa theo từng giai đoạn sinh trưởng của cây và chủ động tưới theo quy trình tưới tiết kiệm nước; tùy điện kiện cụ thể áp dụng biện pháp tưới ngập- khô xen lẽ.

+ Nếu gặp hạn, mặn: cần tranh thủ nguồn nước ngọt để tưới (khi triều kém, độ mặn trong nước thấp do nước từ thượng nguồn đổ về) đặc biệt vào giai đoạn lúa trổ. Trường hợp không có nguồn nước ngọt, có thể sử dụng nguồn nước nhiễm mặn thấp (<1,28%0) hoặc dùng nước ngọt tưới phun qua lá.

+ Bón bổ sung: phun một số loại phân bón lá, chế phẩm tăng cường khả năng chống chịu mặn như KNO3 (10g/lít nước); phân chứa nguyên tố Ca, Mg, Si.

                                                                                              Lê Thị Chính

                                                                        Chi cục Trồng trọt & BVTV Vĩnh Long

Các tin cùng chuyên mục:
Hiển thị kết quả 1-10 (của 68)
Trang:1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7Trang đầu « Lùi · Tới » Trang cuối